Quan Thế Âm tiếng Phạn là “Avalokitesvara” dịch sang tiếng
Hán là Quan Thế Âm hay Quán Tự Tại …Danh hiệu Quan Thế Âm, nghĩa là quan sát
tiếng kêu than của chúng sanh trong thế gian để độ cho họ thoát khổ.Theo
Kinh Bi Hoa th́ ở vào đời quá khứ có đức Phật ra đời hiệu là Bảo Tạng Như
Lai. thời đó có vua Chuyển Luân Thanh Vương là Vô Chánh Niệm. Vua có quan
đại thần là Bảo Hải, phụ thân của đức Bảo Tạng khi chưa xuất gia đối trước
Đức Phật Bảo Tạng phát ra 48 đại nguyện.
Do đó, Đức Bảo Tạng thụ kư cho Vua (khi đó đă là Pháp Tạng Tỳ Kheo) sau này
thành Phật hiệu là A Di Đà ở vào thế giới cực lạc.
Vua Chuyển Luân có nhiều con. Con cả là Thái Tử Bất Tuấn cũng do ngài Bảo
Hải khuyến tiến. Thái Tử cũng đi xuất gia theo cha và đối trước Đức Bảo Tạng
Như Lai phát ra bảo nguyện đại bi thương xót, cứu độ tất cả các loài chúng
sanh bị khổ năo. V́ vậy Đức Bảo Tạng thụ kư cho Thái Tử thành Bồ Tát hiệu là
Quan Thế Âm, c̣n Bảo Hải là tiền thân của Đức Thích Ca Mâu Ni. Đức Bảo Tạng
thụ kư cho Thái Tử rằng: “V́ ḷng đại bi Ông muốn quán niệm cho tất cả chúng
sanh được cùng về cơi an lạc (cực lạc). Vậy từ nay đặt tên cho Ông là Quan
Thê Âm….
Bồ Tát Quan Thế Âm là hiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện thực hiện từ
bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh c̣n đau khổ. V́ chỉ có từ bi
mới giải trừ đau khổ, cũng như chỉ có trí tuệ mới diệt được ngu si. Do đó,
Bồ Tát Quan Thế Âm thiết lập tâm đại từ, đại bi mà thực hiện đại thệ nguyện
độ sanh của Ngài.
TỪ là đem niềm vui đến cho kẻ khác. Chữ Từ như người ta thường nói: Từ
thiện, từ ái, từ mẫu, từ tâm. Từ tâm đối với ác tâm, sân tâm, ích kỷ tâm….BI
là phương châm, là cách thức hành động để cứu khổ.Từ là ḷng yêu thương, Bi
là ra tay giải quyết và dấn thân nỗ lực làm việc để cứu giúp thực tế. Tóm
lại Tu Bi: Thương yêu chúng sinh, mang lại cho họ niềm an lạc vui sướng gọi
là Từ (maritrya, maitri). Đồng cảm nỗi khổ và thương xót chúng sinh, trừ bỏ
nỗi khổ cho họ gọi là Bi.
Quán Thế Âm xưa kia Ngài đă thành Phật hiệu là “Chánh Pháp Minh Như Lai”.
Ngài thị hiện làm Bồ Tát v́ muốn đảm đương công tác cứu khổ ban vui cho
chúng sanh. Đức Bồ Tát quán thấy Phật và chúng sanh đồng chung một bản thể,
đồng chung một giác tánh duy nhất, nhưng Phật đă giác ngộ mà chúng sanh th́
c̣n mê.
Do đó, Đức Quan Thế Âm tức là một vị Phật tương lai sẽ bổ vào ngôi của Đức
Phật A Di Đà, th́ ngài cùng với ngài Đại Thế Chí (kiếp xưa là em ngài, con
thứ vua Chuyển Luân cũng cùng Ngài đồng thời được Đức Bảo Tạng thụ kư) giúp
việc giáo hóa độ sanh cho Đức Phật A Di Đà và 2 Ngài cũng ứng thân xuống sa
bà trợ giáo cho Đức Thích Ca Mâu Ni.
Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm có chép lời Ngài bạch với Đức Thế Tôn rằng:
“Con nhớ cách đây vô số hằng hà sa kiếp về trước có Đức Phật ra đời hiệu là
Quan Thế Âm, từ Đức Phật kia dạy con, do nghe, nghĩ và tu mà vào Tam Ma Đề”
Do đó nên biết: Ngài đă phát tâm Bồ Đề từ đời Đức Phật Quan Thế Âm trong vô
số hằng hà sa kiếp về trước do nghe Phật truyền pháp, Ngài đă nhận định pháp
tu Viên Thông về nhĩ căn là hơn tất cả, do ngài khó chứng viên thông ở nhĩ
căn nên được Đức Phật thụ kư cho ngài danh hiệu Quán Thế Âm, một danh hiệu
mà chúng sanh ở mười phương cung kính chấp tŕ, nhất là trong những lúc nguy
hiểm, đau khổ.
Ngoài ra, Kinh Quán Âm Tam Muội nói: “Xưa kia Ngài Quán Thế Âm đă thành Phật
hiệu là “Chính Pháp Minh Như Lai”. Tiền thân Đức Thích Ca hồi ấy đă từng ở
dưới pháp ṭa, sung vào trong số đệ tử khổ hạnh để gần gũi”. Ngày nay Đức
Thích Ca thành Phật, thời Ngài trở lại làm đệ tử để gần gũi lại:” Một Đức
Phật ra đời th́ hàng ngàn Đức Phật phù tŕ”.
Trong Kinh Đại Bi Tâm Đà Na Ni th́ chép lời Ngài bạch Phật rằng: “Bạch Đức
Thế Tôn ! con nhớ vô lượng ức kiếp trước có Đức Phật ra đời hiệu là Thiên
Quan Vương tĩnh trụ Như Lai” Đức Phật ấy v́ thương đến con và tất cả chúng
sanh nên nói ra môn Đại Bi Tâm Đà La Ni. Ngài lại dùng cánh tay sắc vàng xoa
đầu con mà bảo:”Thiện Nam Tử ! Ông nên trụ tŕ tâm chú này và v́ khắp tất cả
chúng sanh trong cơi trược ở đời vị lai mà làm cho họ được sự lợi ích yên
vui lớn.”
Lúc đó con mới ở ngôi Sơ Địa, vừa nghe xong thần chú
này liền vượt lên chứng đại Bát Địa”.
Mật tông th́ theo trong Kinh Đại Bản Như Ư nói có 8 vị đại Quan Âm là:
1) Viên Măn Ư, Nguyệt Minh Vương Bồ Tát.
2) Bạch Y Tự Tại.
3) Cát La Sát Nữ.
4) Tứ Diện Quán Âm.
5) Mă Đầu La Sát.
6) Tỳ Cầu Chi.
7) Đại Thế Chí.
8) Đà La Quan Âm (Quán Âm Chuẩn Đề).
Ngài có đức uy thần công đức và ḷng từ bi rất lớn. Ngài vốn không phải là
nữ tướng, nhưng v́ ngài thường cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh (mà phụ nữ
thường nhiều khổ nạn hơn so với nam giới) cho nên giới phụ nữ đặc biệt tín
ngưỡng về Ngài. Nên chúng sanh mới tưởng tượng ra Ngài là nữ tướng để tiện
hoá độ cho phụ nữ. Theo Kinh A-Di-Đà nói: Người sanh về cơi cực lạc tuy chưa
chứng quả Thánh, vẫn không có tướng nam, tướng nữ. Kinh A Hàm nói người nữ
có 5 chướng không thể thành Phật…..Thế mà Bồ Tát Quan Thế Âm lại hiện thân
người Nữ ư?
Bồ Tát Quan Thế Âm hiện thân của Đức Từ Bi, muốn nói lên t́nh Mẹ thương con,
Mẹ đối với con là t́nh thương chân thành, tha thiết nhất không có t́nh
thương nào sánh bằng. Cho nên, Đức Quan Thế Âm hiện thân là một người mẹ
hiền của nhân loại, hay của tất cả chúng sinh.
Căn cứ theo h́nh tướng đă thể hiện và đức tính Quan Thế Âm đă cứu khổ cứu
nạn cho chúng sinh, nhân loại được thoát khổ đau ở sa bà này to lớn biết
chừng nào !
Chân như đạo Phật rất mầu
Tâm trung chữ hiếu niệm đầu chữ nhân
Hiếu là độ được song thân
Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài
Tinh thông ngh́n mắt ngh́n tay
Cũng trong một điểm linh đài hóa ra
Xem trong biển nước nam ta
Phổ môn có Đức Phật Bà Quan Âm.
Cho nên, Phật Tử chúng ta dù tu theo pháp môn nào: Mật Tông, Tịnh Độ hay
Thiền Tông cũng phải thường xuyên niệm hồng danh của Ngài. Ngài gia hộ, độ
tŕ cho mới thoát khỏi tai nạn, khổ ách mỗi khi đến với mọi người chúng ta
đều phải niệm “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm Bồ Tát” th́
được giải thoát, tai qua nạn khỏi và sự nghiệp tu hành mới mau chóng thành
tựu theo sở cầu như nguyện